Posted by Phù Vân (136..98.176) on July 16, 2023 at 11:33:58:
In Reply to: Re: Xem xong TQC thấy ư chời ơi!! posted by tâm tịnh on July 16, 2023 at 10:30:36:
"lâu rồi tôi có coi một video clip về một người đàn bà bị một cái vong nhập . Một nhà sư hỏi chuyện với cái vong đó th́ được biết vong đó là vua Đường huyền trang thưở xưa và người đàn bà bị vong nhập là hoàng hậu của ông ta khi xưa , c̣n nhà sư là vị quan cận thần của vua lúc đó ."
Tôi chỉ biết qua lịch sử Trung Hoa, Đường Huyền Trang là ông Tam Tạng được vua nhà Đường nhận làm em cho nên có họ Đường!
Vậy Đường Huyền Trang là sư đi thỉnh kinh sau này có truyện Tây Du Kư
Vậy video đó là để câu viu những ai không rành về sử Tàu
---
Huyền Trang
Bài viết
Thảo luận
Đọc
Sửa đổi
Sửa mă nguồn
Xem lịch sử
Công cụ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huyền Trang
玄奘
Tam Tạng Pháp sư Đường Tăng; Thạch thất Đôn Hoàng, thế kỉ 9
Tên khác Đường Tam Tạng (唐三藏)
Đường Tăng (唐僧)
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáo Phật giáo
Trường phái Đại thừa
Tông phái Pháp tướng tông
Xuất gia 615
Thụ giới Cụ túc
623
Thông tin cá nhân
Sinh
Thế danh Trần Huy (陳禕)
Ngày sinh 602
Nơi sinh Lạc Châu, Câu Thị, Hà Nam
Mất
Ngày mất 5 tháng 2, 664 (61–62 tuổi)
Nơi mất Chùa Ngọc Hoa
An nghỉ
Ngày an táng 14 tháng 4, 664
Nơi an táng Bạch Lộc Nguyên
Thân quyến
Cha Trần Huệ
Cổng thông tin Phật giáo
xts
Huyền Trang (chữ Hán: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng 602–664), hay Huyền Tráng,[1] tục danh Trần Huy (陳禕), cũng thường được gọi là Đường Tam Tạng (唐三藏) hay Đường Tăng (唐僧), là một cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Phạn ngữ ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Danh hiệu Tam Tạng được giới tăng sĩ tôn xưng để tôn vinh ông là người tinh thông cả Tam tạng Kinh điển Phật giáo.
Cơ duyên và thành tích
Huyền Trang trên đường đi Ấn Độ
Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Hy, Trần Vĩ, Trần Qui hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 602, có thuyết nói là năm 600 (niên hiệu Khai Hoàng thứ 20, đời Tùy), tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Hà Nam, trong một gia đ́nh có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Trần Huệ th́ dốc tâm vào Nho học, khước từ làm quan. Theo các truyện kư th́ từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được thân phụ chỉ dạy những nghi thức Nho giáo.
Năm lên 13 tuổi Sư đă xuất gia và thọ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học kinh sách Đại thừa dưới nhiều giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn. Đây là lư do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Thiên Trúc để tự ḿnh t́m hiểu.
Mặc dù bị hoàng đế ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm 629 Sư liều ḿnh ra đi để hành hương chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ t́m kiếm và nghiên cứu kinh điển mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập kư sự du hành của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đă khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Đại Đường Tây Vực kư, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về địa lư, xă hội và tập quán của miền Trung Á và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đă đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều nhà du khảo phương Tây như Ariel Stein đă tham khảo tập kư sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm t́m lại và xác định những vị trí đă được t́m ra và rồi bị lăng quên trong nhiều thế kỉ.
Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ tŕnh độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đă gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất chùa chiền cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đă trở thành tu sĩ tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Triều Tiên và Nhật Bản, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ ḷng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền nghệ thuật và kiến trúc Trung Quốc bằng những vật dụng và thiết kế do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Trường An (ngày nay là Tây An) để chứa đựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn c̣n và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.
Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn c̣n đóng một vai tṛ quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Quy mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà c̣n bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-t́-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhă ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Địa tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.
Trong thời Huyền Trang, Phật giáo Trung Quốc có nhiều trường phái và học thuyết được h́nh thành. Họ tranh căi nhau về các vấn đề cơ bản. Trong số đó, nhiều trường phái dựa trên các kinh sách không rơ xuất xứ nhưng được xem là phiên dịch từ nguồn gốc Ấn Độ. Một số khác dựa trên kinh sách thật nhưng các bản dịch thiếu chính xác đă gây ra nhiều nhầm lẫn. Điều này ngày một phổ biến tại Trung Quốc và Triều Tiên. Sau 16 năm tại Trung Á và Ấn Độ, trở về Trung Quốc, Huyền Trang cống hiến đời ḿnh bằng cách đưa Phật giáo Trung Quốc thời đó trở lại phù hợp với những ǵ Sư học hỏi được tại Ấn Độ. Sư thực hiện điều đó bằng cách phiên dịch lại các kinh sách quan trọng, tŕnh bày lại một cách chính xác hơn cũng như giới thiệu những kinh sách mới và nhiều tài liệu chưa hề có tại Trung Quốc. Song song với công tŕnh dịch thuật khổng lồ – 74 bộ kinh luận trong 19 năm – trong đó có một số kinh với quy mô to lớn, như bộ Ma-ha-bát-nhă-ba-la-mật-đa đă nhắc đến dài hàng ngàn trang – Sư c̣n đào tạo tăng sĩ học tập hệ thống Duy thức và Nhân minh Ấn Độ, đồng thời Sư là tăng sĩ biện giải số một của triều đ́nh cho đến ngày nhập diệt. Công tŕnh dịch thuật của Sư ghi dấu ấn sâu sắc sự thâm nhập của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ vào miền Đông Á.